Tập quán ở Quảng Ngãi
[dropcap][/dropcap]Người Việt ở Quảng Ngãi đa số là dân gốc Thanh, Nghệ Tĩnh di cư vào trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử; cư trú chủ yếu ở 6 huyện đồng bằng, các huyện lỵ, thị xã, các thị trấn, huyện lỵ các huyện miền núi và một số ít sống xen kẽ với các dân tộc thiểu số các làng, nóc.
Người việt ở Quảng Ngãi thường xây nhà tranh vách đất. Từ năm 1975 xuất hiện ngày càng nhiều nhà lợp ngói, tường xây. Dưới mái nhà ấy là khoảng không gian văn hoá bảo lưu các nếp sống, tâm lý cộng đồng được sàng lọc qua bao thế hệ. Các tập tục của cộng đồng và dân tộc lần lượt diễn ra trong gia đình theo một chu kỳ sống của mỗi cá nhân, thế ứng xử với gia đình, gia tộc, xóm làng và xã hội.
Bên cạnh việc duy trì một số tập tục của dân tộc Việt từ miền Bắc, người Việt ở Quảng Ngãi có một số tập quán riêng như cách xưng hô tên gọi, thứ bậc trong gia đình, cách nấu nướng các món ăn; đã có phần đơn giản hoá nhiều lễ thức tạo nên một nếp sống phù hợp với hoàn cảnh của vùng đất mới.
1. Phong tục:
a. Cưới hỏi:
Ngày trước con trai con gái độ 15, 16 tuổi là dựng vợ gả chồng. Có khi 2 gia đình ước hẹn thông gia lúc con mới sinh, nhưng tệ nạn tảo hôn không thật nhiều.
Trong hôn nhân, ngày trước người ta thường tìm chổ “môn đăng hộ đối”. Hiện nay việc đó đã biến giảm, duy vẫn còn tục coi người hợp tuổi, coi ngày để làm lễ hỏi, cưới kiêng kỵ trong nhà có tang. Phía trai chọn người làm “mai dong”, ăn nói lịch thiệp, gia đình hoà thuận, đến thuyết phục gia đình nhà gái. Nếu được nhà gái đồng ý thì nhà trai đem trầu cau đến dạm hỏi, gọi là lễ sơ vấn. Tiếp đến là lễ ăn hỏi. Người cha đằng trai và người mai dong mang trầu cau, trà rượu và đôi bông tai vàng đến nhà gái làm sính lễ cho cô dâu. Sau đó, chàng rễ thường về giúp việc cho nhà vợ. Ngày tết, giỗ chạp, chàng rễ phải có mặt ở nhà vợ.
Hai bên gia đình trai gái cùng thoả thuận lễ vật, chọn ngày giờ tốt làm lễ cưới mong tránh khỏi trắc trở về sau. Trong lễ cưới, họ nhà trai gồm bà con thân thích, phù rễ và người gánh xiểng (đựng lễ vật) đưa chú rễ đến nhà gái. Số người luôn là chẵn. Đến ngõ nhà gái, họ nhà gái đốt pháo chào mừng, đón tiếp họ nhà trai vào nhà. Lễ vật được đặt lên bàn thờ tổ tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Đôi tân hôn lạy trước bàn thờ, kính cáo tổ tiên ông bà bên vợ và trao nhẫn cưới. Đại diện hai họ nói những lời tốt đẹp cảm ơn nhau, họ nhà trai nhận dâu, họ nhà gái nhận rễ. Sau đó là tiệc mừng hai họ giữa hai họ với bà con bên nhà gái. Đúng giờ đã định, họ nhà trai rước dâu, họ nhà gái đưa dâu về nhà chồng. Số người nhà gái đi đưa dâu thường là bằng số người nhà trai. Phía nhà trai cũng đón tiếp tương tự. Đôi tân hôn lạy trước bàn thờ kính cáo với tổ tiên ông bà bên phía chồng. Tiếp đó là lễ tơ hồng, tạ ơn nguyệt lão xe duyên cho vợ chồng trăm năm hạnh phúc. Xong lễ cưới, chiều hôm đó hoặc ba ngày sau vợ chồng đưa nhau về nhà bên vợ làm lễ “phản bái” để cảm ơn cha mẹ vợ có công sinh thành nuôi dạy người con gái và tổ chức lễ cưới.
Ngày trước có nhiều gia đình giàu thách cưới rất phiền phức, làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi trẻ.
Ngày nay nam, nữ thanh niên đến tuổi trưởng thành tự tìm hiểu nhau, song cha mẹ vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc dựng vợ gả chồng cho con. Khi hai bên đã thoả thuận thì làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền cơ sở. Tục gánh xiểng được thay bằng đôi quả đựng lễ vật. Từ đầu năm 1995, theo quy định mới, tục đốt pháo trong lễ cưới được xoá bỏ để tránh mất trật tự và rủi ro có thể xãy ra.
Trong lễ cưới cũng có sự khác nhau giữa vùng này với vùng khác, tuy nhiên sự khác nhau không nhiều.
b. Sinh con:
Thông thường vợ chồng thích sinh con trai đầu lòng, con đầu lòng thường sinh ở nhà cha mẹ vợ (con so nhà mạ, con rạ nhà chồng). Trong mỗi làng thường có bà “mụ” chuyên giúp cho sản phụ mẹ tròn con vuông.
Theo tín ngưỡng, đứa bé sinh ra, rốn được cắt chôn hoặc giấu cẩn thận, tránh thấm nước mái hiên để đứa trẻ khỏi bị ghẻ ở đầu hoặc loét mắt. Sản phụ nằm ờ buồng kín, tránh gió, dưới giường luôn có nồi lửa than, ăn thức ăn khô và mặn. Đến hôm “đầy cử” (trai bảy ngày, gái chín ngày), sau khi xông muối, xoa nghệ, người mẹ mới được ra khỏi buồng và một tháng sau mới dần trở lại sinh hoạt bình thường. Đứa trẻ được tắm rửa sạch, quấn tả lót, thường hơ lửa, đánh dầu kỹ lưỡng. Đến lúc đầy tháng (gái tụt hai, trai tụt một ngày), cha mẹ cùng xin keo và đặt tên cho con. Tên con thường thể hiện ước mong của cha mẹ về tương lai con cái, tránh trùng tên tổ tiên, ông bà và những bà con gần gũi, bên cạnh tên chính, vì mê tín, có khi đứa bé được đặt tên phụ xấu hơn để quỷ thần quên đi đứa trẻ, cha mẹ dễ nuôi.
Con tròn một năm tuổi, cha mẹ tổ chức lễ cúng thôi nôi. Trong lễ người ta đặt các loại bút giấy, gương lược, kim chỉ, bánh kẹo…để khi đứa trẻ cầm vật gì trước thì ngưòi ta dự đoán tương lai nghề nghiệp của nó.
Những đứa trẻ khó nuôi thường được cha mẹ đem lên chùa xin làm con của Phật, hoặc đem đến thầy cúng làm con tổ tiên (tục gọi là “khoán”, “bán khoán”), đến 10, 12 tuổi làm lễ chuộc về. Khi người khác ẳm đứa trẻ đi đâu thì bôi lọ nồi lên trán để tránh điều không hay. Con khóc đêm (dạ đề) thì lấy đồ sắt để ở đầu giường. Con nấc thì lấy lá trầu dán vào trán…
Ngày nay các phong tục tập quán trong sinh con chỉ còn rất hiếm ở vùng xa xôi hẻo lánh. Đa phần phụ nữ sinh con tại nhà hộ sinh địa phương hoặc khoa sản bệnh viện. Các lễ đặt tên con, “thôi nôi” đã giản ước và tiến bộ hơn trước.
c. Tang ma:
Người hấp hối được đưa ra chánh tẩm, con cái tụ lại xung quanh để nghe lời trăn trối. Người chết được tắm rữa bằng trầm hương, thay quần áo sạch, đắp tờ giấy trắng lên mặt. Gia đình lấy ít gạo hoặc lấy ít vàng bỏ vào miệng người chết gọi là “phạm hàm” (phong tục từ Trung quốc cổ đại). Phạm hàm xong, người chết được đặt trên chiếu trải dưới đất, sau một lát đưa lên giường. Người thân thuộc trong nhà đều im lặng, đều niệm Phật khi có tụng kinh (nếu gia chủ theo đạo Phật), đi chân không, không dùng đồ trang sức, không trang điểm son phấn.
Khâm liệm người chết thì tuỳ giàu nghèo mà dùng vóc nhiễu tơ lụa, hoặc vải trắng để may đồ đại liệm và tiểu liệm. Đồ tiểu liệm là tấm chăn nhỏ bọc thi thể. Đồ đại liệm là tấm chăn lớn bọc ngoài, có một đai buộc dọc và 5 đai buộc ngang. Ngoài ra, còn có bao bàn tay, bàn chân để giữ xương các đốt tay, chân không rơi vải khi cơ thể người chết tan rữa.
Khâm liệm xong, người ta đặt thi hài vào quan tài, đem để giữa nhà (nếu trong nhà còn người lớn hơn thì để một bên), đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân. Trên quan tài đặt 7 ngọn đèn, lư hương, một chén cơm bông và hột gà luộc để thờ. Trước linh cửu có đặt linh toạ (bàn thờ vong) gồm bài vị, ảnh, đèn cầy, hồn bạch. Sau đó làm lễ phát tang (lễ thành phục). Thân quyến người chết dâng lễ lên linh toạ, bịt khăn tang, mặt tang phục, thứ tự xếp hàng lễ bái, luân phiên túc trực bên linh cửu để cúng và tạ ơn khách đến viếng. Khi quan tài quàng trong nhà, người ta thường mời phường bát âm xướng nhạc tang tỏ lòng thương tiếc và đưa hồn người chết về nơi siêu thoát. Ngày chôn cất làm lễ phát dẫn, thân quyến họ hàng đều đưa tang, gọi là tống tang. Cha mất thì con trai chống gậy trúc, mẹ mất thì chống gậy vông. Con trai truởng bưng linh toạ đi lui, mặt nhìn quan tài. Con dâu, con gái lăn ra khóc giữa đường, tỏ lòng hiếu thảo, vài người thân thích đi bên linh cửu để hộ tang.
Nghi trượng đưa tang gồm có: bức hoành vải trắng ghi 4 chữ “Hổ sơn vân ấm” (cha mất), “Dĩ lĩnh vân mê” (mẹ mất), nghĩa là “núi Hổ mây áng tối”, “đỉnh Dĩ mây che mờ”.
Ở Quảng Ngãi, nhiều nơi dùng nghi trượng đối với nam là “công bố”, “trung tín”, đối với nữ là “công bố”, “trinh thuận”.
Trong đám tang còn có minh tinh ghi thuỵ hiệu người chết, treo vào cành tre như cây phướng: hương án bày giá hương, độc bình, đồ tam sự, mâm ngũ quả; linh xa rước hồn bạch hoặc hình ảnh, bài vị, cờ chữ A, cờ công bố bằng vải trắng, tốt, dài 3m dẫn đường cho linh cửu (quan tài) đặt trong nhà mả, có người rắc giấy vàng mả dọc đường.
Hiện nay tang lễ đã giản lược bớt. Khi đưa linh cửu người ta thường dùng xe (thành thị). Ở nông thôn nếu không đi xe, cũng chỉ có bài vị, cờ trống; không có tục con dâu, con gái lăn ra khóc giữa đường.
Huyện Mộ Đức thầy địa lý xem trước (xưa kia kia có tục xem thế đất để con cháu phát đạt) và phân kim chọn giờ hạ nguyệt. Quan tài hạ xuống, con cháu, họ hàng thân thích, mỗi người ném một hòn đất đưa tiễn, nhà sư chờ lấp xong, tụng kinh xung quanh mộ. Mai táng xong, về nhà làm lễ ngu tế. Ngày thứ nhất sơ ngu, thứ hai là tái ngu, thứ ba là tam ngu (ngu nghĩa là yên). Chôn được ba ngày thì làm lễ mở cửa mả; 49 ngày làm tuần chung thất; 100 ngày tế thần tốt khốc (thôi khóc), thôi cúng 2 buổi, 1 năm làm lễ tiểu đường, bỏ đồ sô gai, gậy…ba năm làm lễ bỏ đồ tang phục. Sau đó hàng năm cúng giỗ vào ngày trước của ngày chết.
d. Thờ cúng tổ tiên:
Mỗi dòng họ có một nhà thờ, gọi là mễ tộc (Trần tộc, Nguyễn tộc…). Nếu dòng họ đã định cư lâu đời, có nhiều chi phái thì ngoài nhà thơ chính ông thuỷ tổ cùng các đầu chi, các chi còn có nhà thờ riêng. Người cai quản nhà thờ và tế tự là chi trưởng nam (trưởng tộc). Mỗi gia đình thờ từ ông bà nội đến cha mẹ…
Bàn thờ: đối với nhà giàu thì làm tủ thờ cẩn xà cừ, khảm rồng phượng, nhà bình thường thì làm bàn thờ đơn giản, nhưng luôn được đặt ở chổ trang trọng, tôn nghiêm nhất trong nhà. Đồ thờ gồm ảnh (hoặc bài vị), lư hương hoặc bộ đèn, bình hoa…nhà giàu còn treo hoành phi khắc đại từ kèm đối liễn hai bên ca ngợi công đức tổ tiên. Đồ thờ là của gia bảo thiêng liêng, con cháu luôn luôn thành kính giữ gìn, dẫu túng kiệt cũng không bán. Nhà thờ thường có gia phả, ghi chép danh tánh ngày sanh, tử (có ghi công đức, sự nghiệp của tổ tiên) theo thứ tự thế hệ.
Mỗi dòng họ, chi phái đều có ruộng hưởng hoả dành cho trưởng tộc canh tác lấy lợi tức cúng tế hàng năm. Dòng họ không có ruộng hương hoả thì mỗi lần cúng tế, con cháu phải đóng góp gạo, tiền. Nhà thờ hàng năm có tế xuân và tế thu, con cháu tụ họp để nhận biết ngôi thứ, bà con trong dòng họ. Việc cúng tế không thể thiếu đĩa muối, chén gạo, chén nước, liễn trầu, quả cau, chén rượu. Mỗi năm có một ngày “giỗ họ” hoặc “chạp mả”, con cháu coi đây là dịp kính cáo với tổ tiên , cầu mong được tổ tiên phù hộ. Đây cũng là dịp nhận mặt bà con cùng dòng họ, kết chặc tình huyết thống, tránh những sai trái trong hôn nhân, tranh chấp giữa những người cùng họ.
1 bình luận